Đinh lăng – Công dụng, đặc điểm và các bài thuốc chữa bệnh
Đinh lăng là một vị thuốc trong Đông y. Đinh lăng có nhiều công dụng trong chữa bệnh như chữa bệnh tắc sữa, chữa mệt mỏi, liệt dương,… Vậy đinh lăng có đặc điểm, công dụng và cách dùng như thế nào?
(Dưới đây là tổng hợp tài liệu trong quyển: “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ tất Lợi) Chương XX Các vị thuốc bổ, thuốc bồi dưỡng nguồn gốc thảo mộc (trang 828)” và quyển “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập I, (trang 793 – 796)”)
A. Tên gọi
Đinh lăng còn gọi là cây gỏi cá, nam dương sâm, đinh lăng lá nhỏ.
Tên khoa học Polyscias fruticosa (L.) Harms (Panax fruticosum L, Nothopanax fruticosum (L.) Miq., Tieghemopanax fruticosus (L.) R. Vig.
Tên nước ngoài: Ginseng tree (Anh), polyscias (pháp)
Thuộc họ Ngũ gia bì Araliaceae.
Ta dùng rễ hay vỏ rễ phơi hoặc sấy khô của cây đinh lăng.
B. Mô tả cây
Đinh lăng còn gọi là cây gỏi cá (vì nhân dấn thường lấy lá để ăn gỏi cá, nhưng tên đinh lăng phổ biến hơn) là một cây loại cây nhỏ, xanh tốt quanh năm, thân nhẵn, không có gai, ít phân nhánh mang nhiều vết sẹo to màu xám, thường cao 0,8 đến 1,5m. Lo to, mọc so le. Lá kép 3 lần se lông chim dài 20-40cm, không có lá kèm rõ. Lá chét có cuống gần dài 3-10mm, phiến lá chét có răng cưa không đều, đôi khi chia thùy, gốc và đầu thuôn nhọn, lá còn có mùi thơm khi vò nát, cuống lá dài, phát triển thành bẹ to ở phần cuối.
Cụm hoa hình chùy ngắn 7-18mm gồm nhiều tán; lá bắc rộng, sớm rụng ; hoa nhỏ, màu lục nhạt hoặc trắng xám. Đài 5 răng hàn liền, mép uống lượn; tràng 5 cánh hình trái xoan, nhị 5 với chỉ nhị gầy, bầu hạ 2 ngăn có dìa trắng nhạt. Quả dẹt dài 3-4mm, hình trứng rộng, màu trắng bạc, dày 1mm có vòi tồn tại.

Mùa hoa quả: tháng 4 – 7.
Cây dễ nhầm lẫn:
Nhiều loại khác cũng mang tên đinh lăng, nhưng không được dùng làm thuốc:
- Đinh lăng lá tròn ( Polyscias balfouriana Baill.)
Lá kép thường chỉ có 3 lá chét trên một cuống dài, lá chét hình tròn, đầu tù.
- Đinh lăng lá to hay đinh lăng lá ráng (Polyscias ilicifolla (Merr.) Baill.)
Lá kép có 11 – 13 lá chét; lá chét hình mác có răng cưa to và sâu.
- Đinh lăng trổ hoặc đinh lăng viền bạc (Polyscias guilfoylei Baill.)
Lá kép có 7 lá chét: lá chét thường có viền trắng. Loại này lại có 2 thứ là:
- Polyscias guilfoylei var. laciniata Baill.
- Polyscias guilfoylei var. victoriae Baill.
C. Phân bổ, thu hái và chế biến
Đinh lăng là một cây được trồng phổ biến làm cảnh ở nước ta, mọc cả ở Lào và miền nam Trung Quốc.
Trước đây không thấy dùng làm thuốc, gần đây .do sự nghiệp nghiên cứu tác dụng bổ mới bắt đầu được dùng. Thường đào rễ, rửa đất cát, phơi hay sấy khô.
Chi Polyscias Forst. & Forst. F. Có gần 100 loài trên thế giới, phân bổ rải rác ở vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới, nhất là ở một số đảo ở Thái Bình Dương. ở Việt Nam có 7 loại đều là cây trồng (I. Grushvitzky, N. skvortso, Hà Thị Dung & N Arnautov,1985)
Đinh Lăng có nguồn gốc ở vùng đảo Polynésie ở Thái Bình Dương. Cây được trồng ở Malaysia, Indonesia, campuchia, lào,… Ở Việt Nam, loại cây này cũng có từ lâu trong nhân dân và được trồng khá phổ biến ở vườn gia đình, đình chùa, trạm xác, bệnh viện để làm cảnh, làm thuốc và rau gia vị.
Đinh lăng là loại cây ưa ẩm và có thể hơi chịu bóng, trồng được trên nhiều loại đất; thậm chí với một lượng đất rất ít trong chậu nhỏ, cây vẫn có thể sống được, theo kiểu cây bonsai. Trồng bằng cành sau 2 -3 năm cây sẽ có hoa quả. Chưa quan sát được cây con mọc từ hạt.
Đinh lăng có khả năng tái sinh vô tính khỏe. Với một đoạn thân hoặc cành cắm xuống đấy đều trở thành cây mới.
D. Cách trồng
Đinh lăng được trồng phân tán ở khắp nơi, để làm cảnh, lá làm gia vị, rễ làm thuốc. Hiện nay, một số nơi đã bắt đầu trồng cây này ở quy mô sản xuất thử (1000 – 2000m2).
Đinh lăng được nhân giống bằng cành. Trong dân gian, khi trồng một vài cây trong chậu, trong bồn, góc sân, góc vườn,… người ta chỉ cần lấy một đoạn thân cành cắm xuống đất là được. Nếu trồng lớn, chọn cành bánh tẻ có đường kính 1 – 1,5 cm, cắt thành đoạn dài 5 – 7 cm, giâm trong cát ẩm (70%). Sau 7 – 10 ngày, hom giống nảy mầu và sau 1,5 – 2 tháng có thể ra ngôi. Cành giâm lúc đầu chỉ ra rễ ở đầu dưới của cành. Thực tiễn thấy rằng, rễ này nhỏ và chất lượng kém hơn rễ phát sinh từ gốc chồi tái sinh. Tuy nhiên, chồi tái sinh của đinh lăng ra rễ rất chậm. Đó là lý do tại sao cây này lâu được thu hoạch. Vấn đề này đang được nghiên cứu để tìm giải pháp khắc phục.
Đất trồng đinh lăng cần nhiều màu, tầng canh tác sâu, tơi xốp, cao ráo, thoát nước và tiện tưới. Sau khi làm đất, khơi rãnh thoát nước hoặc lên thành luống, bứng cây con ra trồng với khoảng cách 0,8 x 0,6 m. Mỗi gốc cây, cần bón lót 3 -5 kg phân chống hoai mục.
Đinh lăng trồng được quanh năm, tốt nhất là giâm cành vào tháng 5 – 6 và trồng vào tháng 7 – 8. Khi trồng nên cắt bớt lá để hạn chế thoát hơi nước, giúp cây nhanh hồi phục. Cây ưa bóng và ưa ẩm nên có thể trồng xen dưới tán cây trong vườn. Thường xuyên làm cỏ, nhất là lúc mới trồng. Từ giữa mùa xuân đến mùa thu, thời kỳ cây sinh trưởng mạnh, cần bón thúc cho cây. Dùng nước phân chuồng, nước giải pha loang, phân vi sinh hoặc NPK, liều lượng tùy mức độ sinh trưởng của cây.
Đinh lăng không có sâu bệnh nghiêm trọng. Cây trồng sau 7 – 10 năm mới được thu hoạch. Cây càng già, năng suất và chất lượng rễ càng cao.
E. Bộ phận dùng
Rễ củ thu hái vào mùa thu, lúc này rễ mềm, nhiều hoạt chất, rửa sạch. Rễ nhỏ để nguyên, rễ to chỉ dùng vỏ rễ. Thái rễ mỏng, phơi khô ở chỗ mát, thoáng gió để đản bảo mùi thơm và phẩm chất. Khi dùng, để nguyên hoặc tẩm rượu gừng 5%. Sao qua, rồi tẩm 5% mật ong, sao thơm.
F. Thành phần hóa học
Trong đinh lăng đã tìm thấy có các alcaloit, glucozit, saponin, flavonoit, tanin, vitamin B1, các axit amin trong đó có lyzin, xystei, và methionin là những axit amin không thể thay thế được (Ngô ứng Long-Viện quân y, 1985).
Vỏ rễ và lá đinh lăng chứa saponin, alcaloid, các vitamin B1, B2, B3, vitamin C, 20 acid amin, glycosid, alcalouid, phytosterol, tanin, acid hữu cơ, tinh dầu, nhiều nguyên tố vi lượng 21,10% đường. Trong lá còn có saponin triterpen (1,65%), một genin đã xác định được là acid oleanolic.
Bổ sung chi tiết thành phần hóa học của đinh lăng theo quyển Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập I: Thành phần hóa học của đinh lăng trong quyển: Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập I, trang 795
G. Tác dụng dược lý
Năm 1961, các khoa dược lý, dược liệu và giải phẫu bệnh lý Viện y học quân sự Việt Nam nghiên cứu tác dụng của đinh lăng làm tăng sức dẻo dai của cơ thể và một số tác dụng khác đã đi đến kết luận sau đây:
- Nước sắc rễ đinh lăng có tác dụng làm tăng sức dẻo dai của cơ thể trên thí nghiệm cấp tính tương tự như nhân sâm.
Tam thất và các cây khác cùng học có tác dụng làm tăng sức dẻo dai của cơ thể (thí nghiệm trên chuột mình tròn lội nước theo phương pháp thí nghiệm cấp tính của I. I.Brekman). Nhưng trên thí nghiệm trường diễn, tác dụng chóng hết và thường hay tích lũy.
- Với liều dùng 0,1 cao lỏng đinh lăng cho 20g thể trọng sống và làm giảm hoạt động của chuột nhắt trắng.
- Đinh lăng tác dụng trực tiếp trên cơ tim ếch, cô lập (theo phương pháp Straub) với liều nhất định làm giảm trương lực cơ tim, làm tim co bóp yếu và thưa, tiến tới tim ngừng đập.
- Dung dịch nước 0,2 đến 1% dễ đinh lăng gây co mạch tai thỏ cô lập theo phương pháp Kravkov.
- Với liều 0,5ml dung dịch cao đinh lăng 100-200% trên 1 kg thẻ trọng tiêm tĩnh mạch vành tai đều tằn cường hô hấp về biên độ và tần số: Huyết áp nhất thời hạ xuống.
- Trên tử cung tại chỗ, với liều 1ml dung dịch cao đinh lăng 100% cho 1kg thể trọng tiêm tĩnh mạch vành tai làm tăng co bóp tử cung nhẹ.
- Đinh lăng có tác dụng tăng tiết niệu gấp trên 5 lần so với bình thường với liều uống 2ml dung dịch đinh lăng 100% cho 100g thể trọng (thị nghiệm trên chuột bách Trung Quốc).
- Liều độc: Đinh lặng ít độc, so với nhân sâm còn ít độc hơn. Giải phẫu bệnh lý những chuột chết vì liều độc thì thấy gây tổn thương nặng tổ chức cơ sở các tạng nhất là gan, thận, tim, não, cuối cùng chết. Liều độc tiêm phúc mạc DL50 của đinh lăng 32,9g/kg trong khi đó DL50 16,5g/kg, của ngũ gia bì Liên Xô cũ (Eleutherococcus) là 14,5g/kg, chứng tỏ đinh lăng ít độc hơn 2 vị thuốc nhân sâm và ngũ gia bì Liên Xô cũ. Cho uống với liều 50g/kg thể trọng chuột vẫn sống bình thường.
Độc tính thường diễn thấy xung huyết ở gan, tim, phổi, dạ dày, ruột, biến loạn dinh dưỡng tim, gan, thận. Trước khi chết có hiện tượng ỉa lỏng, xù lông, mệt mỏi, kém ăn, sụt cân.
- Làm tăng sức đề kháng của chuột đối với tác hại của bức xạ siêu cao tần và thấy có tác dụng kéo dài thời gian sống của chuột hơn so với một số thuốc như ngũ gia bì Eleutherococcus của Liên Xô cũ, đương qui, ba kích. Tác dụng này có thể là do tính chất bổ chung nhưng còn có thể do cơ chế điều nhiệt của đinh lăng.
- Ngô Ứng Long và Xavaev (Liên Xô cũ) đã cùng nhận thấy đinh lăng có tác dụng tốt đối các nhà du hành vũ trụ khi luyện tập trong tư thế tĩnh, đầu dốc ngược.
Thực nghiệm trên người, viên bột rễ đinh lăng làm tăng khả năng chịu đựng của bộ đội, vận động viên thể dục, thể thao trong các nghiệm pháp gắng sức cũng như luyện tập.
Theo sách cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt nam tập I thì đinh lăng còn có một số tác dụng như sau:
- Tăng lực trên động vật thí nghiệm và trên người. Thân và lá cũng có tác dụng tăng lực nhưng yếu hơn so với rễ
- Bổ, làm tăng cân đối với động vật và người. Thân và lá cũng có tác dụng này, nhưng yếu hơn
- Làm tăng hiệu lực điều trị của cloroquin trong bệnh sốt rét thực nghiệm trên động vật.
- Tăng co bóp tử cung và tăng tiết niệu.
- Tác dụng an thần và ít độc
- Đinh lăng đã được nghiên cứu và chứng minh có tác dụng nội tiết kiểu oestrogen.
- Nước sắc đinh lăng có tác dụng kháng đối với trùng roi Euglena viridis, trùng tiêm mao Paramoecium caudatum và một số động vật nguyên sinh khác trong nước ngâm rơm và nước ao. Nước sắc đinh lăng còn có tác dụng chống choáng phản vệ ở mức độ vừa, bảo vệ được chuột lang qua cơn choáng.
Và một số tác dụng khác chi tiết tại trang 795 sách này: Tác dụng dược lý của đinh lăng – trang 795 quyển Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập I
H. Tính vị, công năng
Rễ đinh lăng có vị ngọt, tính bình. Lá vị nhạt, hơi đắng, tính bình. Dược liệu có tác dụng bổ 5 tạng, tiêu thực, tiêu sưng viêm, giải độc, bổ huyết, tăng sữa.
I. Công dụng và liều dùng
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu dược lý, Viện y học quân sự Việt Nam năm 1964 cho thí nghiệm dùng trên người thấy với liều 0,23 đến 0,50 bột đinh đăng một ngày dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu nhẹ độ (30 độ) thì có kết quả tăng sức dẻo của cơ thể như khi nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.
Trong nhân dân, ngoài công dụng ăn gỏi cá, có nơi dùng đinh lăng chữa ho, ho ra máu, thông tiểu, thông sữa, kiết lỵ nặng. Tại Ấn Độ, theo K. M. Naikarai, cây này được dùng chữa sốt, làm sắn da. Rễ và lá sắc uống có tác dụng lợi tiểu chữa sỏi thận, sỏi bàng quang, chứng khó tiểu tiện. Bột lá được giã với muối và đắp trị vết thương.
Rễ đinh lăng được dùng làm thuốc bổ tăng lực, chữa cơ thể suy nhược, gầy yếu, mệt mỏi, tiêu hóa kém, phụ nữ sau khi đẻ ít sữa. Có nơi còn dùng chữa ho, ho ra máu, đau tử cung, kiết lỵ và làm thuốc lợi tiểu chống độc.
Lá chữa cảm sốt, mụn nhọt, sưng tấy, sung vú, dị ứng mẩn ngứa, vết thương (giã đắp). Thân và cành chữa thấp khớp, đau lưng. Ngày dùng 1 – 6g rễ hoặc 30 – 50g thân cành dạng thuốc sắc. Có thể dùng rễ khô tán bột hoặc rễ tươi ngâm rượu uống.
Đơn thuốc có đinh lăng
-
Chữa bệnh mỏi mệt, biếng hoạt động
Đinh lăng (rễ) phơi khô, thái mỏng 0,50g, thêm 100ml nước, đun sôi trong 15 phút, chia 2 hay 3 lần uống trong ngày.
-
Chữa sốt lâu ngày, nhức đầu, háo khát, ho, đau, tức ngực, nước tiểu vàng
Đinh lăng tươi (rễ, cành) 30g, lá hoặc vỏ chanh 10g, vỏ quýt 10g, sài hổ (rễ, lá, cành) 20g, lá tre tươi 20g, cam thảo hoặc dây cam thảo đất 30g, rau má tươi 30g, chua me đất 20g. Các vị cắt nhỏ, đổ ngập nước, sắc đặc lấy 250ml, chia uống 3 lần trong ngày.
-
Thông tia sữa, căng vú sữa.
Rễ cây đinh lăng 30-40g. Thêm 500ml nước sắc còn 250ml. Uống nóng. Uống luôn 2-3 ngày, vú hết nhức, sữa chảy bình thường (y sĩ Kim Hoán, Y học thực hành, 7-1963).
-
Chữa đau tử cung
Cành và lá đinh lăng rửa sạch sao vàng, sắc uống thay chè.
-
Chữa mẩn ngứa do dị ứng
Lá đinh lăng 80g, sao vàng, sắc uống. Dùng 2 -3 tháng
-
Chữa liệt dương
Rễ đinh lăng, hoài sơn, ý dĩ, hoàng tinh, hà thủ ô, kỳ tử, long nhãn, cám nếp, mỗi vị 12g; trâu cổ, cao ban long, mỗi vị 8g; sa nhân 6g. Sắc uống, ngày một thang
-
Chữa vết thương
Giã nát lá đinh lăng đắp lên.
-
Chữa sốt rét
Rễ đinh lăng, sài hổ, mỗi vị 20g; rau má 16g, lá tre, cam thảo nam, mỗi vị 12g; bán hạ sao vàng 8g, gừng 6g. Sắc uống
-
Chữa viêm gan mãn tính
Rễ đinh lăng 12g, nhân trần 20g, ý dĩ 16g; chi tử, hoài sơn, biển đậu, rễ cỏ tranh, xa tiền tử, ngũ gia bì, mỗi vị 12g; uất kim, nghệ, ngưa tất, mỗi vị 8g. Sắc uống, ngày một thang.